Hiện
nay tình hình thừa cân và béo phì đang tǎng lên với một tốc độ báo động
không những ở các nước phát triển mà ở cả các nước đang phát triển. Đây
thật sự là mối đe doạ tiềm ẩn trong tương lai. ở các nước đang phát
triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở thành
phố đang phát triển béo phì tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp
nhiều ở thành phố hơn ở nông thôn. ở Việt nam tỷ lệ thừa cân và béo phì
khoảng 4% ở Hà nội (1995) và thành phố Hồ Chí Minh (2000)10,7% ở lứa
tuổi 15-49 và 21,9% ở lứa tuổi 40-49.
Béo phì là gì?
Béo
phì là một tình trạng sức khoẻ có nguyên nhân dinh dưỡng. Thường thường
một người trưởng thành khoẻ mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của họ
đứng yên hoặc giao động trong giới hạn nhất định. Hiện nay Tổ chức Y tế
thế giới thường dùng chỉ số khối có thẻ (BMI) để đánh giá tình trạng gây
bệnh của cơ thể.
IBM = Cân nặng (kg)/Chiều cao2 (m)
Người ta coi chỉ số BMI bình thường nên có ở giới hạn 20-25, trên 25 là thừa cân và trên 30 là béo phì.
Một
điều cần chú ý nữa là vùng chất mỡ tập trung. Mỡ tập trung nhiều quanh
vùng eo lưng tạo nên dáng người "quả táo tàu" thường được gọi là béo
kiểu "trung tâm", kiểu phần trên hay béo kiểu dáng đàn ông và mỡ tập
trung ở phần háng tạo nên vóc người "hình quả lê" hay còn gọi là béo
phần thấp hay kiểu dáng đàn bà. Vì vậy bên cạnh theo dõi chỉ số BMI nên
theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/ vòng mông, khi tỉ số này vượt quá 0,9 ở
nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tǎng huyết áp, bệnh tim mạch,
bệnh đái đường đều tǎng lên rõ rệt.
Béo
phì không tốt đối với sức khoẻ, người các béo các nguy cơ càng nhiều.
Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh tǎng huyết áp, bệnh tim mạch do
mạch vành, đái đường, hay bị các rối loại dạ dày, ruột, sỏi mật.
Béo phì có các tác hại và nguy cơ cụ thể là
Mất thoải mái trong cuộc sống
Người
béo phì thường có cảm giác bửu bối khó chịu về mùa hè do lớp mỡ dày đã
trở thành như một hệ thống cách nhiệt. Người béo phì cũng thường xuyên
cảm thấy mệt mỏi chung toàn thân, hay nhức đầu tê buốt ở hai chân làm
cho cuộc sống thiếu thoải mái.
Giảm hiệu suất lao động
Người
béo phì làm việc chóng mệt nhất là ở môi trường nóng. Mặt khác do khối
lượng cơ thể quá nạng nề nên để hoàn thành một động tác, một công việc
trong lao động, người béo phì mất nhiều thì giờ hơn và mất nhiều công
sức hơn. Hậu quả là hiệu suất lao động giảm rõ rệt so với người thường.
Kém lanh lợi
Người
béo phì thường phản ứng chậm chạp hơn người bình thường trong sinh hoạt
cũng như trong lao động. Hậu quả là rất dễ bị tai nạn xe cộ cũng như
tai nạn lao động.
Hai nguy cơ rõ rệt ở người béo phì
Tỷ lệ bệnh tật cao
Béo
phì là một trong các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mãn tính không
lây như: Bệnh mạch vành, đái đường không phụ thuộc insulin, sỏi mật.
Ở
phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật, ung thư vú và tử cung
tǎng lên ở những người béo phì, còn ở nam giới béo phì, bệnh ung thư
thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn.
Tỷ lệ tử vong cũng cao hơn: nhất là trong các bệnh kể trên
Thừa cân và béo phì còn làm giảm vẻ đẹp của mọi người.
Nguyên nhân của béo phì
Mọi
người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân
bằng giữa nǎng lượng do thức ǎn cung cấp và nǎng lượng tiêu hao cho lao
động và các hoạt động khác của cơ thể. Cân nặng cơ thể tǎng lên có thể
do chế độ ǎn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại
ít tiêu hao nǎng lượng.
Khi
vào cơ thể, các chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển thành
chất béo dự trữ. Vì vậy, không nên coi ǎn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây
béo mà ǎn quá thừa chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Tóm lại
có thể chia nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của béo phì như sau:
Khẩu phần ǎn và thói quen ǎn uống
Nǎng
lượng (calo) đưa vào cơ thể qua thức ǎn thức uống được hấp thu và được
oxy hoá để tạo thành nhiệt lượng. Nǎng lượng ǎn quá nhu cầu sẽ được dự
trữ dưới dạng mỡ.
Chế
độ ǎn giàu chất béo (lipid) hoặc đậm độ nhiệt độ cao có liên quan chặt
chẽ với gia tǎng tỉ lệ béo phì. Các thức ǎn giàu chất béo thường ngon
ngên người ta ǎn quá thừa mà không biết. Vì vậy, khẩu phần nhiều mỡ, dù
số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa calo và tǎng cân. Không chỉ ǎn nhiều
mỡ, thịt mà ǎn nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Việc
thích ǎn nhiều đường, ǎn nhiều món sào, rãn, những thức ǎn nhanh nấu sẵn
và miễn cưỡng ǎn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. Thói quen ǎn
nhiều vào bữa tối cũng là một điểm khác nhau giữa người béo và không
béo.
Hoạt động thể lực kém
Cùng
với yếu tố ǎn uống, sự gia tǎng tỉ lệ béo phì đi song song với sự giảm
hoạt động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hơn, thời gian dánh cho
xem tivi, đọc báo, làm việc bằng máy tính, nói chuyện qua điện thoại
nhiều hơn.
Kiểu
sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng trong béo phì. Những người
hoạt động thể lực nhiều thường ǎn thức ǎn giàu nǎng lượng, khi họ thay
đổi lối sống, hoạt động nhưng vẫn giữ thói quen ǎn nhiều cho nên bị béo.
Điều này giải thích béo ở tuổi trung niên, hiện tượng béo phì ở các vận
động viên sau khi giải nghệ và công nhân lao động chân tay có xu hướng
béo phì khi về hưu.
Yếu tố di truyền
Đáp
ứng sinh nhiệt kém có thể do yếu tố di truyền. Yếu tố di truyền có vai
trò nhất định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo, tuy vậy
nhìn trên đá số cộng đồng yếu tố này không lớn.
Yếu tố kinh tế xã hội
Ở
các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng lớp nghèo thường
thấp (thiếu ǎn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó khǎn) và
béo phì thường được cọi là một đặc điểm của giàu có. ậ các nước đã phát
triển khi thiếu ǎn không còn phổ biến nữa thì tỉ lệ béo phì lại thường
cao ở tầng lớp nghè, ít học so với ở các tầng lớp trên.
Ở
nhiều nước, tỷ lệ người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung
niên và chống béo phì trở thành một mục tiêu sức khoẻ cộng đồng quan
trọng. ở Việt nam, tỷ lệ người béo còn thấp nhưng có khuynh hướng gia
tǎng nhanh nhất là ở các đô thị. Đó là điều cần được chú ý để có các can
thiệp kịp thời.
Thực
hiện một chế độ ǎn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì
cân bặng ổn định ở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết để
tránh béo phì. Các biện pháp cụ thể là:
- Chế độ ǎn nǎng lượng (calo) thấp, cân đối, ít đói, ít đường, đủ đạm, vitamin, nhiều rau quả.
- Luyện tập ở môi trường thoáng.
- Xây dựng nếp sống nǎng động, tǎng cường hoạt động thể lực.
Chế độ ǎn cho người béo phì
-
Giảm nǎng lượng của khẩu phần ǎn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng
300 kcal so với khẩu phần ǎn trước đó cho đến khi đạt nǎng lượng tương
ứng đến mức BMI.
+ BMI từ 25-29,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal.
+ BMI từ 30-34,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal.
+ BMI từ 35-39,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal.
+ BMI >=40 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal.
Trong đó tỉ lệ nǎng lượng giữa các chất là 15-16% protein, 12-13% lipid, 71-72% glucid.
- Ăn ít chất béo, bột.
- Đủ chất đạm, vitamin, muối khoán. Cần bổ sung viên đa vitamin và vi lượng tổng hợp.
- Tǎng cường rau và hoa quả.
- Muối, mì chính: 6g/ngày. Nếu có tǎng huyết áp thì chỉ cho 2-4g/ngày.
- Tạo thói quen ǎn uống theo đúng chế độ.
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét